Trong một cuộc gặp giữa Quang Trung - Nguyễn Huệ và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, “Huệ hỏi: “Nghe thầy học tinh lý-số, lại hay mưu lược. Nay Tôn - Sĩ-Nghị nó sang, thầy nghĩ chước nào?”. Thầy Nguyễn Thiếp thưa rằng: “Quân quý thần tốc”. Huệ nói rằng: “Phải, phải, tôi nay ra đánh cho nó chết. Tôi mà dẹp được giặc Tầu xong thì xin rước thầy ra dạy học. Tôi muốn khí - dụng gì cũng chẳng mua của nước Tầu”. Thầy Nguyễn Thiếp lại thưa rằng: “Chỉ có thuốc bắc phải dùng của Tầu mà thôi”. (“La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn”).

Ảnh: BẢO MINH

Ảnh: BẢO MINH

Theo đây thì nước Nam có thể tự túc được mọi “khí-dụng”, trừ “thuốc bắc”. Ấy vậy mà dân gian lại có câu “Thuốc nam đánh giặc, thuốc bắc lấy tiền”. Và, cứ theo cách giảng của các nhà biên soạn từ điển thì thuốc công hiệu là thuốc nam chứ không phải thuốc bắc:

-“Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương) giải thích: “Thuốc nam đánh giặc, thuốc bắc lấy tiền: Thuốc nam là thứ vốn dùng để đánh thẳng vào bệnh tật; còn thuốc bắc là thứ được dùng để lấy tiền các con bệnh mà thôi. Hay dùng để chỉ rõ vai trò hệ trọng của các loại thuốc nam so với thuốc bắc”.

- “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân): “Thuốc nam đánh giặc, thuốc bắc lấy tiền. Ý nói: Thuốc nam công hiệu, còn thuốc bắc thì đắt tiền”.

Theo chúng tôi, không có cơ sở nào để nói rằng thuốc bắc chỉ là thứ “lấy tiền của các con bệnh” chứ không có tác dụng “đánh thẳng vào bệnh tật như thuốc nam”. Cũng không có chuyện chỉ thuốc Nam mới “công dụng” còn thuốc bắc được mỗi cái “đắt tiền”.

Thực ra, câu tục ngữ phản ánh một thực tế: có những vị thuốc nam vốn mang tên và nguồn gốc bản địa (Việt Nam) nhưng được các thầy thuốc bắc hoặc thương nhân Trung Quốc khai thác, sao chế, sử dụng với cái tên thuốc bắc (xuất xứ Trung Quốc) giá đắt gấp nhiều lần.

Xét về mặt đặc điểm sinh học, dược tính thì có khi 2 vị thuốc (một nam, một bắc) hoàn toàn giống nhau, chỉ khác tên gọi. Ví dụ: binh lang 檳榔 (hạt cau già), trần bì 陳皮 (vỏ quýt rừng), chỉ xác 枳殼 (quả quýt hôi), long nhãn -龍眼 (cùi nhãn), đại hồi 大茴 (hoa hồi), hoài sơn 淮山 (củ mài), ý dĩ 薏苡仁 (hạt bo bo)...

Nhiều vị thuốc khai thác ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, khí hậu, thổ nhưỡng giống Trung Quốc, công dụng không khác gì thuốc bắc. Trong “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, Đỗ Tất Lợi viết: “có tình trạng cùng một vị thuốc nhưng ở tỉnh này thì ta xuất sang Trung Quốc với một tên này, ở tỉnh khác ta lại nhập với tên khác và mang danh thuốc bắc. Ví dụ: Lào Cai xuất củ gấu tàu và hoàng liên thì Hải Phòng lại nhập cùng những vị đó với tên ô đầu và hoàng liên bắc v.v...”.

Lại có những vị thuốc có sẵn ở ta nhưng chỉ được sử dụng trong đơn (bài) thuốc bắc. Trong “Đất lề quê thói”, Nhất Thanh viết: “Ở đất ta cũng có nhiều thứ cây, lá, củ, rễ, hoa, quả, hạt, là những vị thuốc bắc, tỉ như sen, quế, sa nhân, ýdĩ, đậu khấu... mà thuốc nam không dùng”.

Vì người Nam không dùng, không biết dùng nên từ xa xưa, người Bắc (Trung Quốc) đã biết khai thác, mua lại để dùng, sao chế rồi có khi bán lại cho ta. Sách “Đàng Trong thời chúa Nguyễn” cho biết: “Hàng hóa mà người Trung Hoa mua lại của Đàng Trong gồm có vàng, ngà voi, gỗ quý, đường, cau, gỗ đóng tủ, xạ hương, tiêu, cá khô, tổ yến và các loại dược thảo mà họ kiếm được trên núi...” (HTC nhấn mạnh). Lê Quý Đôn cũng từng chép về việc người Tàu mua “cau già” (binh lang 檳榔) của ta: “Gia Định nhất thóc nhì cau”, dân địa phương thường bỏ không thu, cau già lấy hột bán cho người Tàu” (“Phủ biên tạp lục”).

Khi điều tra cây thuốc ở vùng Quảng Ninh, Đỗ Tất Lợi còn cho biết: “Vì giao thông thuận tiện, có nhiều người Trung Quốc đã đến sinh sống từ lâu đời, họ biết khai thác nhiều vị thuốc mà cha ông họ đã biết khai thác, sử dụng ở Trung Quốc; nay sang đây họ tiếp tục khai thác để sử dụng hay xuất về nước, trong khi nhân dân ta chưa chú ý khai thác”.

Mà đâu chỉ riêng các vị thuốc bắc. Trong sách “Thế lực Khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ”, Đào Trinh Nhất cho biết: “Biên Hòa: tỉnh này trồng nhiều chè (tức chè Huế), Hoa kiều mua rồi chế hóa thế nào, làm thành như chè của Tầu, mà lại bán cho ta”.

Lẽ dĩ nhiên, qua công đoạn bào chế và khoác cái tên chữ linh diệu của người Tàu, hạt cau già sẽ trở thành vị “binh lang 檳榔”; củ mài thành “hoài sơn - 淮山”; hạt bo bo thành “ý dĩ - 薏苡仁” ... Ngoài ra, còn vô số vị thuốc nguồn gốc động vật ở ta, được khoác cái tên “huyền bí” của Tàu, như: “ô tặc cốt 烏賊骨” (mai mực); “xuyên sơn giáp 穿山甲” (vảy con tê tê, hay con trút)...

Mặt khác, nhiều thầy thuốc bắc của ta biết rõ nguồn gốc bản địa nhưng trong đơn, thầy vẫn kê với tên thuốc bắc. Vì bản thân các bài thuốc này được đúc kết, truyền dạy theo y lý của Trung y. Và có như vậy thì những vị thuốc nam dễ kiếm ấy mới được bán theo giá thuốc bắc.

Vậy chẳng phải “Thuốc nam đánh giặc, thuốc bắc lấy tiền” là gì?

Như vậy, “Thuốc nam đánh giặc, thuốc bắc lấy tiền” ý nói: Các vị thuốc nguồn gốc bản địa của ta (thuốc nam) được người Tàu thu mua, bào chế, rồi mang tên chữ thuốc bắc, giả làm thuốc bắc. Các vị thuốc chữa bệnh thực chất là thuốc nam của ta (sẵn có và rẻ) nhưng lại mang danh thuốc bắc (giá cao) thu tiền vào túi thương nhân Tàu, thầy thuốc Tàu.

Lẽ dĩ nhiên, “thầy Nguyễn Thiếp” cũng đã đề quá đề cao thuốc bắc.

HOÀNG TUẤN CÔNG

Nhãn:

Đăng nhận xét

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.